Với trữ lượng đất hiếm dồi dào, đứng
thứ 3 trên thế giới, việc khai thác nguồn tài nguyên này chắc chắn sẽ đem đến
cho Việt nam nhiều lợi ích về kinh tế. Tuy vậy, các nhà khoa học khuyến cáo rằng,
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường khi khai thác loại quặng này rất cao. Điều này
đòi hỏi chúng ta phải có những nghiên cứu kỹ lưỡng về công nghệ cũng như sự kín
kẽ trong các chính sách pháp luật.
Trữ lượng lớn
Đất hiếm gồm có 17 nguyên tố, đều
là những nguyên tố dạng hiếm có trong bảng tuần hoàn hóa học. Chúng được sử dụng
rộng rãi trong ngành sản xuất thiết bị điện tử, ngành công nghiệp hạt nhân hay
sản xuất vũ khí và trở thành loại nguyên liệu tối cần thiết cho nhiều ngành
công nghiệp mũi nhọn của các quốc gia phát triển. Bởi đây là chất có tính dẫn
điện và từ tính tốt khiến công nghệ trong tay ta nhanh hơn, mạnh hơn và nhẹ
nhàng hơn. Nếu không nhờ đất hiếm, máy tính của chúng ta sẽ to như cả một căn
phòng vậy.
Ở Việt Nam, đất hiếm có trữ lượng
khoảng 17 – 22 triệu tấn, đứng thứ 3 trên thế giới, phân bổ chủ yếu ở các tỉnh
Tây Bắc như: Bắc Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai)
và Yên Phú (Yên Bái) và các tỉnh ven biển từ Thanh Hóa vào đến Bà Rịa, Vũng
Tàu. Ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước Việt Nam khai thác đất hiếm và bán
thô lại cho Cộng hòa Séc và Ba Lan. Tuy vậy, do chưa xây dựng và hình thành
ngành công nghiệp đất hiếm nên mức độ khai thác còn nhỏ lẻ, công nghệ sử dụng
còn lạc hậu, chủ yếu sử dụng các phương pháp thủ công, dẫn đến tổn thất tài
nguyên lớn.
Để phát triển ngành công nghiệp đất
hiếm tại Việt Nam, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 25/2008/QĐ-BCT về
Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng đá quý, đất
hiếm và urani giai đoạn đến năm 2015, có xét đến năm 2025. Theo đó, mục tiêu
giai đoạn 2016 – 2025, tổng sản lượng khai thác và chế biến đạt 20.000 tấn ôxít
đất hiếm/năm.
Thời gian tới sẽ triển khai một số
dự án như: Dự án khai thác, chế biến đất hiếm tại mỏ đất hiếm Đông Pao, Lai
Châu do Công ty CP Đất hiếm Lai Châu – Vimico quản lý; Dự án khai thác và chế
biến đất hiếm tại mỏ đất hiếm Yên Phú, Yên Bái do Công ty CP Thái Dương làm chủ
đầu tư và Dự án khai thác, chế biến đất hiếm tại mỏ đất hiếm Nam và Bắc Nậm Xe,
Lai Châu do Công ty CP Hưng Hải làm chủ đầu tư.
Nguy cơ ô nhiễm cao
Việc triển khai các dự án khai
thác đất hiếm sẽ mang lại lợi ích kinh tế. Theo tính toán của giới khoa học,
giá thị trường hiện là 800 USD/tấn đất hiếm, nếu tách riêng các nguyên tố có
trong đất hiếm để bán, giá sẽ tăng lên nhiều lần, khoảng 1 triệu USD/tấn nguyên
tố.
Tuy vậy, khai thác đất hiếm tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao hơn
khai thác than đá, dầu mỏ rất nhiều. Vì chế biến đất hiếm phải dùng nhiều loại
hóa chất có ảnh hưởng đến môi trường. Ngoài ra, trong đất hiếm có những khoáng
chất mang tính phóng xạ với cường độ cao hơn những loại phóng xạ khác.
Theo TS. Nguyễn Thúy Lan, Viện Khoa
học Mỏ – Luyện kim, khai thác và chế biến quặng đất hiếm sinh ra một khối lượng
lớn chất thải. Đất đá thải trong khai thác quặng đất hiếm được lưu giữ trong
các bãi thải và thường phơi lộ trong môi trường, nên các chất độc hại như các
chất phóng xạ, sulphides, fluorites và kim loại nặng trong đất đá thải sẽ hòa
tan và lan truyền tới các thủy vực, rò rỉ vào hệ thống nước ngầm và đất đai.
Quặng
đuôi thải ra từ quá trình tuyển quặng đất hiếm được lưu chứa trong các hồ thải
cũng là nguồn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường lớn. Các thành phần độc hại
trong quặng đuôi khi hòa tan có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường đất, nước và
không khí, bao gồm các kim loại như Al, Ba, Be, Cu, Pb, Mn, Zn, các chất phóng
xạ (Th và U), fluorides, sulphate, hóa chất tuyển…
Những tác hại từ quá trình khai
thác quặng đã được minh chứng tại Trung Quốc. Nhiều năm trước Trung Quốc là nước
khai thác đất hiếm nhiều nhất, với sản lượng 120.000 tấn mỗi năm, chiếm 97% thế
giới. Nhưng sự khai thác ồ ạt với công nghệ lạc hậu đã khiến sông Hoàng Hà, nguồn
nước quan trọng của hơn 150 triệu dân bị đe dọa bởi chất thải từ mỏ khai thác đất
hiếm.
Tại tỉnh Quảng Đông, dân cư đang cố gắng cải tạo những cánh đồng lúa và
suối, kênh… đã bị hủy hoại bởi nguồn axít cực mạnh rò rỉ từ những khu khai thác
đất hiếm gần đó. Thậm chí, động vật nuôi cũng bị chết, mùa màng không còn, dân
số từ 2.000 người giảm xuống còn vài trăm người do bệnh tiêu chảy, loãng xương,
tim phổi. Chính vì vậy, năm 2012 Trung Quốc đã bắt đầu ngừng xuất khẩu đất hiếm,
giảm sản lượng khai thác và ban hành các văn bản luật để siết chặt việc khai
thác đất hiếm.
Tìm kiếm công nghệ
Có thể khẳng định, Việt Nam là nước
có tiềm năng về tài nguyên đất hiếm. Tuy vậy, để khai thác bền vững quặng đất
hiếm, hạn chế các tác động đến môi trường, trước mắt phải nghiên cứu công nghệ
sản xuất, lựa chọn và áp dụng thiết bị tiên tiến phù hợp. Từ năm 2010 Chính phủ
Việt Nam đã quyết định chọn Nhật Bản làm đối tác hợp tác trong việc khai thác đất
hiếm.
Nhật Bản đã giúp Việt Nam xây dựng và vận hành Trung tâm nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ đất hiếm nhằm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
tiên tiến, thân thiện với môi trường cho quá trình chế biến sâu quặng đất hiếm
Việt Nam; nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, vật liệu, sản phẩm có
giá trị gia tăng cao từ đất hiếm Việt Nam; đào tạo cán bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ
thuật thông qua nghiên cứu và thông qua các chương trình đào tạo nhân lực; thực
hiện chuyển giao công nghệ.
Đây là nền tảng quan trọng giúp Việt
Nam nâng cao trình độ công nghệ khai thác và chế biến nguồn tài nguyên đất hiếm,
tiếp nhận chuyển giao công nghệ có hiệu quả, bền vững, thân thiện với môi trường.
Đến nay, nước ta đã xây dựng cơ sở
nghiên cứu với hệ thống trang thiết bị tương đối đồng bộ cho việc chế biến sâu
quặng đất hiếm, gồm các thiết bị từ giai đoạn tuyển khoáng, thủy luyện, phân
chia tinh chế đất hiếm đến xử lý chất thải và phân tích phục vụ quá trình
nghiên cứu với kinh phí khoảng 3 triệu USD.
Bên cạnh đó, đã thực hiện thành
công các công nghệ như phát triển công nghệ tuyển quặng đất hiếm đạt mức độ thu
hồi cao; xây dựng thành công công nghệ phân hủy tính quặng quy mô pilot; xây dựng
công nghệ phân chia, thu nhận đất hiếm riêng lẻ độ tinh khiết cao; xây dựng
công nghệ xử lý chất thải chứa nhân phóng xạ tự nhiên của quá trình tuyển,
thủy luyện, phân chia tinh chế…
Theo: vfpress.vn
0 Bình luận:
Đăng nhận xét